Tra Từ Điển Đạo Phật

Tìm kiếm theo chữ cái

Trí tuệ

Trí là sự hiểu biết có phân biệt thiện ác rõ ràng, tức là chánh niệm. Trí hiểu do Tứ thiền sinh ra là trí tuệ thuộc về Tam Minh. Trí hiểu về giới luật là trí tuệ tri kiến giải thoát. Trí tuệ tri kiến giải thoát tức là tri kiến tỉnh thức thuộc về tri thức mà đức Phật đả xác định trí tuệ tri kiến như sau: “Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu là trí tuệ ở đó; trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ.

Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật”. Như vậy trí tuệ của giới luật là tri kiến giải thoát. Biết Trí tuệ tri kiến giải thoát do từ giới luật sinh ra thì không còn hiểu lầm trí tuệ Tam Minh do định sinh ra.

Đức Phật đã dạy: ĐỊNH SINH TUỆ. Trí Tuệ là sự Hiểu Biết. Sự giải thoát của Phật giáo hoàn toàn do sự Hiểu Biết bằng Trí Tuệ. Có 6 Trí:

1- Trí biết rằng Già Chết do duyên Sanh.

2- Trí biết rằng không có Sanh thì không có Già Chết.

3- Trí biết rằng trong quá khứ Già Chết cũng do duyên Sanh.

4- Trí biết rằng không có Sanh thì không có Già Chết.

5- Trí biết rằng trong tương lai Già Chết cũng do duyên Sanh.

6- Trí biết rằng không có Sanh thì không có Già Chết.

Khi thông suốt sáu trí này thì người ấy có đầy đủ trí về Tận Pháp, trí về Hoại Pháp, trí vế Ly Tham, trí về Diệt Pháp, nhờ đó tâm họ hoàn toàn giải thoát tức là Bất Động trước các pháp. Trí tuệ là sự hiểu biết của ý thức, là tri kiến giải thoát, chứ không phải trí tuệ Tam Minh.

Con người chỉ có tri kiến chứ chưa có trí tuệ, ngoại trừ những bậc tu chứng Tam Minh. Trí tuệ là giới hạnh. Có giới hạnh, có trí tuệ, thì lời nói mới thành thật không hư dối. Trí tuệphải phát sanh từ thiền định, nhưng bây giờ chưa có thiền định, sao lại gọi ý thức là trí tuệ được.

Sự tư duy quán xét thì ý thức đó được gọi là tri kiến mà thôi. Trí tuệ gồm có bảy:

1- Trí tuệ do ý thức,

2- Trí tuệ do tưởng thức,

3- Trí tuệ do tâm thức,

4- Trí tuệ vô học,

5- Trí tuệ hữu học,

6- Trí tuệ thiện,

7- Trí tuệ ác.

Trí tuệ và Tuệ (gồm có sáu:

1- Đức tuệ,

2- Hạnh tuệ,

3- Trực tuệ,

4- Thắng tuệ,

5- Liễu tuệ,

6- Liệt tuệ.) cộng lại là 13 tuệ. Người tu hành chứng đạo mới có đủ 13 tuệ.

Người không tu hành chỉ có sáu Trí tuệ và một Tuệ. Phần đông, trong cuộc đời người nào cũng có tri kiến, nhưng tri kiến không có giới hạnh. Tri kiến không có giới hạnh là tri kiến khổ đau, tri kiến ác, tri kiến dục làm khổ mình, khổ người.

Từ ngữ trí tuệ dễ hiểu lầm cho nên câu “Giới hạnh là trí tuệ” có thể dịch sửa lại “Giới hạnh là tri kiến giải thoát”.

Gợi ý